Bài viết giúp bạn đọc có thêm khái niệm về độ tuổi của những chi tiết bị lão hóa trên xe hơi. Trong phần đầu này, thuxe sẽ tập trung vào các bộ phận liên quan đến động cơ.
Cũng như cơ thể con người, xe thọ hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như việc được bảo dưỡng thường xuyên, phong cách lái của bạn, điều kiện môi trường và dĩ nhiên không thể không nhắc đến chất lượng phụ tùng và kinh nghiệm lắp ráp của từng hãng xe.
Danh sách các bộ phận liên quan đến động cơ như sau : (nếu bạn thấy tuổi đời của các bộ phận không chính xác, hãy bình luận bên dưới bài viết, admin sẽ sửa lỗi nếu thấy hợp lý)
- Các loại ống dẫn : 150 000 đến 300 000 Km
- Bộ phận Turbo của động cơ tăng áp (turbocharge) : 200 000 Km
- Cảm biến lưu lượng khí nạp : ít nhất 150 000 Km
- Bơm nhiên liệu : ít nhất 250 000 Km
- Bơm cao áp : ít nhất 200 000 Km
- Kim phun nhiên liệu : ít nhất 200 000 Km
- Cảm biến oxy, cảm biến lambda : 150 000 Km
- Van tuần hoàn khí xả (Van EGR) : ít nhất 150 000 Km
- Séc măng : từ 200 000 đến 400 000 Km
- Pit tông : từ 300 000 đến 500 000 Km
- Bugi sấy (động cơ diesel) : 120 000 đến 180 000 Km
- Nắp quy lát : ít nhất là 300 000 Km
- Bơm dầu : ít nhất 300 000 Km
- Bơm nước làm mát : ít nhất 200 000 Km
- Bơm trợ lực lái : ít nhất 250 000 Km
- Tản nhiệt két nước : ít nhất 250 000 Km
- Quạt gió két nước : ít nhất 300 000 Km
- Trục khuỷu : ít nhất 300 000 Km
- Thanh truyền trục khuỷu : ít nhất 300 000 Km
- Dây cua roa cam (dây cao su có rãnh) : 90 000 Km
- Dây cua roa máy phát và các puly : 130 000 đến 200 000 Km
- Bánh đà : Ít nhất là 250 000 Km
- Trục cam : Ít nhất 300 000 Km
- Bộ lọc xúc tác / bộ lọc phần tử diesel : 180 000 đến 250 000 Km
Các loại ống dẫn : 150 000 đến 300 000 Km
Có thể chia làm 2 loại ống dẫn :
Ống dẫn chịu áp suất thường : Ống dẫn nước làm mát động cơ , Ống dẫn gió động cơ + các hệ lưu hành gió khác , Ống dẫn nước rửa kiếng / rửa đèn pha, …
Ống dẫn chịu áp suất cao (được hỗ trợ bởi lớp phủ ngoài bằng kim loại) : Ống dẫn dầu phanh, Ống dẫn chất làm lạnh của điều hòa, Ống dầu giảm chấn thủy lực, Ống dẫn dầu trợ lực lái, Ống dẫn nhiên liệu, …
Chủ yếu làm bằng cao su, tuổi thọ của chúng phụ thuộc vào chất lượng nhưng chủ yếu là vào điều kiện môi trường. Sử dụng trong điều khiện nhiệt độ và độ ẩm thay đổi thường xuyên và đột ngột sẽ làm giảm tuổi thọ đáng kể. Hậu quả nghiêm trọng của việc bị giãn nở thường xuyên và quá mức là chúng bị thủng và gây rò rỉ chất dẫn (ống nạp khí turbo, ống dẫn các loại chất lỏng như nước, dầu, phanh, …). Tuy nhiên, cũng đừng cho hết các loại ống dẫn vào cùng 1 rổ bởi các loại ống quan trọng thường dày hơn vì vậy có dòng đời lâu hơn.
Bộ phận Turbo của động cơ tăng áp (turbocharge) : 200 000 Km
Là bộ phận nhạy cảm nhất (dễ hỏng nhất) của các loại động cơ tăng áp. Tuốc bin quay dưới 1 tần suất khủng khiếp có thể đạt đến 200 nghìn vòng 1 phút (tua máy của động cơ cũng chỉ ở mức dưới 10 nghìn vòng / phút), ở tần suất này thì các cánh quạt tuốc bin có nguy cơ bị hư hỏng, các chi tiết tiếp xúc với trục quay như bạc đạn cũng trở nên mỏng manh hơn. Trong trường hợp bạc đạn lâu ngày bị lão hóa sẽ xuất hiện hiện tường rò rỉ dầu (dầu bôi trơn sử dụng cho các chi tiết tiếp xúc với trục quay của turbo) và vì vậy sẽ có nguy cơ dầu chảy trục tiếp vào buồng đốt của động cơ thông qua ống dẫn khí nạp.
Đây là một trong những nguyên nhân gây hiện tượng khói xanh khi dầu bị đốt cùng với nhiên liệu trong buồng đốt.
Nói tóm lại, sau khoảng 200 000 Km, áp suất nén khí của turbo sẽ giảm đi đáng kể so với những ngày đầu tiên.
Cảm biến lưu lượng khí nạp (Cảm biến MAF) : ít nhất 150 000 Km
Vai trò của cảm biến này là đo lưu lượng không khí được đưa vào buồng đốt của động cơ. Thông số này sẽ được bộ điều khiển trung tâm (ECU) sử dụng để tính toán lượng nhiên liệu phù hợp cũng như để tinh chỉnh van tuần hoàn khí xả (van EGR). Lâu ngày bị bụi bẩn cảm biến sẽ gửi thông tin kém chính xác tới ECU, hậu quả là động cơ sẽ tự động đặt mình sang trạng thái “tự bảo vệ” ( trong tiếng anh là limp mode). Một khi chế độ này được kích hoạt, động cơ bị hạn chế ở vòng tua máy rất thấp để tránh hư hỏng có thể xảy ra.
Để kéo dài tuổi thọ cho cảm biến lưu lượng khí nạp, các bạn không nên chỉ chạy xe trong thành phố bởi đây là nơi không khí chứa nhiều phần tử gây ô nhiểm nhất.
Bơm nhiên liệu (Bơm xăng trong thùng) : ít nhất 250 000 Km
Cũng như tất cả các loại bơm khác, bơm nhiên liệu sẽ bị lão hóa theo thời gian và hậu quả là không thể bơm nhiên liệu vào động cơ được nữa. Nhìn chung thì bộ phận này thường không bị vấn đề gì đặc biệt trong suốt dòng đời của 1 chiếc xe nếu bạn ở nước ngoài. Thị trường việt nam có hiện tượng xăng kém chất lượng nên việc thay thế lọc và bơm xăng xảy ra thường xuyên hơn. Lưu ý không mua bơm xăng nhái để tránh nằm đường.
Kim phun nhiên liệu / Bơm cao áp : ít nhất 200 000 Km
Cảm biến oxy, cảm biến lambda : 150 000 Km
Nhiệm vụ của cảm biến này là gửi thông tin về lượng oxy (dư hoặc thiếu) trong khí cháy về cho bộ điều khiển trung tâm (ECU) nhằm giúp bộ phận này điều chỉnh thời lượng cung cấp nhiên liệu 1 cách thích hợp. Được đặt trong hệ thống ống xả, việc thường xuyên phải “hửi” khói làm giảm đáng kể tuổi thọ bởi chúng phải hoạt động ở nhiệt độ cao và tiếp xúc với nhiều muội bẩn.
Một khi cảm biến này bị hỏng, bạn có thể nhận biết được nhờ các triệu chứng như động cơ tiêu thụ quá nhiều xăng (bộ điều khiển tiếp nhận thông tin sai sẽ gửi nhiều xăng hơn cần thiết) hoặc hiện tượng khói đen ở ống xả (do tỷ lệ hòa nhiên liệu – không khí không đúng khiển nhiên liệu cháy không hết dẫn đến việc tạo ra các phần tử dư thừa gây ra hiện tượng khí thải màu đen). Một hiện tượng nữa liên quan đến tỷ lệ nhiên liệu không chính xác là viêc động cơ hoạt động dưới công suất bình thường, thậm chí còn có thể đẩy động cơ vào chế độ “tự bảo vệ”.
Tuổi đời của một cảm biến oxy, hay cảm biến lambda là 150 000 Km.
Van tuần hoàn khí xả (Van EGR) : ít nhất 150 000 Km
Mục đích chính của van tuần hoàn khí xả là đưa 1 phần khí xả từ động cơ trở lại buồng đốt. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là do khí xả có chứa tạp chất, quá trình đốt sẽ sinh ra nhiều muội bẩn bám trên đầu kim phun nhiên liệu và gây tắc vòi phun (đặc biệt đối với các động cơ phun xăng trực tiếp).
Nhược điểm thứ 2 là đối với van tiết lưu (van EGR), muội bẩn sẽ tích tụ tạo thành một lớp đen dày và ngăn cản van đóng hoặc mở. Nếu van bị kẹt ở vị trí đóng, van không hoạt động, động cơ sẽ vẫn hoạt động bình thường nhưng lượng khí thải NOx sẽ cao. Nếu van bị kẹt ở vị trí mở, động cơ sẽ tiếp nhận nhiều cặn bẩn từ khí xả hơn và sau một thời gian sẽ làm giảm thiểu đáng kể công suất động cơ.
Ngoài ra, một trong những hiện tượng quan sát được của việc dư thừa khí xả là hàm lượng khói đen lớn thải ra từ ống xả.
Tuổi thọ của van EGR ít nhất là 150 000 Km
Dây cua roa máy phát và các puly : 120 000 đến 200 000 Km
Hệ thống dây cua roa gọi tắt là máy phát đóng vai trò kém quan trọng hơn cua roa cam bởi chúng được dùng để vận hành máy phát cung cấp điện cho ác quy, hệ thộng trợ lực lái (trường hợp xe trợ lực điện) cũng như hệ thống điều hòa nhiệt độ. Dây đai này được kéo căng bởi các puly, do được làm bằng cao su nên tuổi đời của chúng cũng bị hạn chế, cần thay mới sau 120 000 Km.
Dây cua roa cam (dây cao su có rãnh) : 120 000 Km
Thông thường đối với dây cua roa cam thì nên thay thế ở mỗi 90 000 Km. Một vài nhà sản xuất cho phép lên đến 200 000 Km bởi cấu tạu của dây chắc và được bảo vệ tốt hơn. Tuy nhiên, đừng quên rằng đây là bộ phận cực kì quan trọng và việc dây đứt có thể làm vỡ máy (trục cam và trục khuỷu không còn hoạt động đồng nhất dẫn đến việc pit tông và súp páp không phối hợp nhịp nhàng được nữa).
Bơm nước làm mát : 120 000 km
Không dẻo dai như bơm dầu, chi tiết này thường hỏng sớm hơn. Đặc biệt nếu sử dụng nước làm mát không đúng tiêu chuẩn hoặc đổ nước có tạp chất vào châm thêm nước làm mát thì bơm càng nhanh hỏng do rỉ sét
Bơm trợ lực lái : ít nhất 250 000 Km
Chi tiết này thường hoạt động đến hết đời của 1 chiếc xe. Khi bạn bẻ lái mà nghe tiếng động lạ thì đó có thể là dấu hiệu bơm trợ lực lái đã mệt mỏi và cần được thay thế.
Két nước tản nhiệt : ít nhất 250 000 Km
Chi tiết này phải có tuổi thọ ít nhất 250 000 Km, thậm chí lâu hơn. Thường lỗi xảy ra do các cánh cánh kim loại nhỏ của bộ phận bị hao mòn do va chạm thường xuyên với sỏi đá, vì vậy mà tuổi thọ của tản nhiệt phụ thuộc một phần vào việc ca lăng có được thiết kế đủ kín hay không.
Quạt gió két nước : ít nhất 300 000 Km
Quạt gió ít khi được sử dụng do chỉ được bật lên khi động cơ đạt đến một nhiệt độ nhất định. Vì vậy mà tuổi đời của chi tiết này có thể đạt đến 300 000 Km.
Séc măng : từ 200 000 đến 400 000 Km / Pit tông : từ 300 000 đến 500 000 Km
Bugi sấy (động cơ diesel) : 120 000 đến 180 000 Km
Chức năng chính là để làm nóng động cơ diesels trước khi khởi động. Phần lớn các bugi sấy chết trước 200 000 Km. Tuy nhiên đối với loại động cơ phun nhiên liệu trực tiếp thì bugi sấy chỉ hoạt động khi thời tiết bên ngoài rất lạnh nói cách khác bugi chỉ có tác dụng trong trường hợp động cơ là loại phun nhiên liệu gián tiếp.
Bộ lọc xúc tác / bộ lọc phần tử diesel : 180 000 đến 250 000 Km
Đóng vai trò là thùng rác trước khi khí thải được thải ra môi trường bên ngoài. Bộ lọc xúc tác sử dụng các phản ứng hóa học để xử lý các chất độc có trong khí thải. Trong khi đó, vai trò của bộ lọc phân tử diesel là ngăn các phân tử độc hại diesel lại trước khi khí thải thoát ra ống xả (để rồi sau đó xả ra lại cặn bẩn tịch tụ được vào môi trường một khi bạn chạy ở tốc độ cao như trên cao tốc !)
admin, 27/12/2016